Bài 42: CÁC NHÂN ĐỨC

(x. SGLC từ 1903 đến 1845)

“Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý và Thiên Chúa bình an sẽ ở với anh em” (Pl 4,8-96).

Đối với người Việt Nam, chữ Đức đóng một vai trò rất quan trọng, và Đức được hiểu là “cái biểu hiện tốt đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người” (Từ điển tiếng Việt NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1988). Đã biết Đạo thì phải sống Đạo, và cuộc sống ấy thể hiện qua cái Đức. Quan niệm nầy thật gần gũi với người tín hữu Kitô. Với Kitô hữu, nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện. Người nhân đức là người hướng về điều thiện với tất cả năng lực thể xác và tinh thần. Vậy đâu là những nhân đức căn bản của đời sống Kitô hữu, và phải làm gì để có được những nhân đức ấy?

 

I. Các Đức Tính Nhân Bản

Các đức tính nhân bản là những xu hướng bền vững, dẫn đến thái độ kiên định và thói quen hướng thiện của lý trí và ý chí; nhờ đó con người điều chỉnh các hành vi và cách sống của mình theo lý trí và đức tin. Có bốn đức tính căn bản: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ.

Khôn ngoan là đức tính giúp ta nhận ra đâu là điều thiện đích thực trong từng hoàn cảnh, và khi đã nhận ra thì biết chọn lựa phương thế thích hợp để đạt tới. Không nên lầm lẫn khôn ngoan với nhút nhát và sợ hãi, lại càng không thể đồng hóa khôn ngoan với sự tráo trở, giả hình. Nhờ khôn ngoan ta biết ứng dụng lề luật luân lý vào những hoàn cảnh cụ thể để thi hành điều thiện cách tốt đẹp nhất.

Công bình là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, và trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Công bình đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng” còn đối với con người, công bình là tôn trọng quyền lợi của mỗi người, đối xử công minh với mọi người và thực thi công ích.

Can đảm là kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện cho dẫu có nhiều khó khăn cản lối. Nhờ đó, ta cương quyết chống lại các cơn cám dỗ, vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý, chiến thắng sự sợ hãi kể cả cái chết để dám sống cho chính nghĩa.

Tiết độ là biết điều tiết sức lôi cuốn của những lạc thú và sử dụng đúng mức những của cải trần thế. Nhờ đó ta làm chủ được các bản năng tự nhiên và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn chính đáng.

Những đức tính nầy được gọi là nhân bản nghĩa là thuộc về con người. Đã là người, phải có những đức tính căn bản đó. Nhiều người tuy không có niềm tin tôn giáo nhưng vẫn có những đức tính đáng quý nầy. Người Kitô hữu lại cần phải có những đức tính nhân bản hơn những người khác, vì muốn làm con Thiên Chúa thì trước hết phải sống cho ra người. Có được những đức tính nhân bản là nhờ giáo dục, sự kiên trì tập luyện và thực hành trong đời sống. Tuy nhiên tội lỗi đã làm con người bị tổn thương; vì thế, ngoài những nỗ lực tự nhiên, ta còn cần đến ơn Thiên Chúa nâng đỡ nhờ cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

II. Các Nhân Đức Đối Thần

Gọi là nhân đức đối thần vì những nhân đức nầy quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và đối tượng. Đối với Kitô giáo, các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho ta những nhân đức nầy, để ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Có ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy và Mến (x.1Cr 13,13).

1. Đức Tin

Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin. Đức Tin là một hồng ân nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của Thiên Chúa. Sự đáp trả ấy mang tính toàn diện nghĩa là của cả lý trí, tình cảm và hành động. Vì thế, đức tin phải được diễn tả ra ngoài bằng việc làm cụ thể. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ” (Gc 2,26). Hơn thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin (x.GH 42). Đòi hỏi nầy xuất phát từ chính bản thân của đức tin, và là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ “Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).

2. Đức Cậy

Đức Cậy là nhân đức nhờ đó ta khao khát Nước Trời, và sự sống vĩnh cữu như hạnh phúc của đời mình, tin tưởng vào các lời hứa của Chúa Kitô, và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần. Con người ta sống không thể không có hy vọng, nếu không nói là người ta sống nhờ hy vọng. Nhưng điều quan trọng là hy vọng vào ai, hy vọng cái gì? Và làm thế nào để đạt tới? Đối với người Kitô hữu, đích điểm của hy vọng không chỉ là hạnh phúc trần thế, nhưng chính là Chúa, là Nước trời và sự sống vĩnh cửu. Đồng thời người Kitô hữu ý thức rằng tự mình không thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ấy, nhưng phải nương tựa vào Chúa. Chính vì thế hy vọng trở thành cậy trông. Đức cậy trông là cái neo chắc chắn bền vững của tâm hồn, là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến thiêng liêng, và mang lại cho ta niềm vui ngay giữa những gian truân thử thách. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân… ” (Rm 12,12). Đời sống cầu nguyện vừa diễn tả vừa nuôi dưỡng đức cậy trông, vì thế ta cần phải đi sâu hơn mỗi ngày vào đời cầu nguyện.

3. Đức Mến

Đức Mến là nhân đức nhờ đó ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, ta yêu mến người thân cận như chính bản thân. Đức Mến thúc đẩy ta sống con thảo với Cha trên trời, và là anh em của mọi người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, người nhân đức là “kẻ có lòng thương người” (x. Từ điển tiếng Việt); nghĩa là lòng yêu thương được coi như cốt lõi của đạo đức. Quan điểm nầy thật gần gũi với đạo Kitô, vì Đức Giêsu đã đặt đức mến làm điều răn mới. Đức mến được coi là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14) là linh hồn của mọi nhân đức, sự viên mãn của lề luật, là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13). Chúa Kitô chính là gương mẫu cao cả nhất. Ngài đã chịu chết vì yêu mến ta ngay lúc ta còn thù nghịch với Thiên Chúa (x.ra 5,10). Vì thế, Ngài mời gọi ta yêu thương như Người (x.Mt 5,44) yêu cả kẻ thù và đón nhận người bé mọn nghèo hèn như đón nhận chính Ngài (Mt 25,40-45). Ngoài ba nhân đức đối thần, Chúa Thánh Thần còn ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng, giúp người tín hữu dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bảy ơn Chúa Thánh Thần là: Ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Chúa. Truyền thống của Hội Thánh cũng nói đến 12 hoa trái của Thần Thánh: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).

Previous article
Next article

BÀI NÊN XEM

BÀI VIẾT MỚI

BÀI VIẾT KHÁC