(x. SGLC từ 1601 đến 1666)
“Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại… Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau” (MV 48).
I. Hôn Nhân Trong Chương Trình Của Thiên Chúa
Hôn nhân là sinh hoạt quen thuộc của con người ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên, cách nhìn về hôn nhân lại có thể rất khác nhau. Đối với người tín hữu Kitô, hôn nhân không chỉ là chuyện của hai người, nhưng trước hết và trên hết là của chính Thiên Chúa, vì chính Ngài tác tạo hôn nhân (x. MV 48). Chính vì thế, ơn gọi hôn nhân đã được khắc sâu vào bản tính nhân loại, và ẩn bên trong những khác biệt về văn hóa, xã hội, vẫn luôn luôn có những đặc tính chung và thiết yếu cho cuộc sống hôn nhân. Đặc tính ấy là tình yêu bền vững và sự kết hợp bất khả phân ly “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24); đồng thời mở ra cho sự sống qua việc sinh sản con cái “Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1,28).
Tuy nhiên, dọc dài lịch sử nhân loại và ngay trong cuộc sống hôm nay, ta lại thường xuyên chứng kiến quá nhiều đổ vỡ của cuộc sống hôn nhân gia đình. Theo cách nhìn của Kinh Thánh, sự đổ vỡ ấy không phát xuất từ bản tính nhân loại, hay từ bản chất của hôn nhân, nhưng từ tội lỗi. Khi con người bẻ gãy mối quan hệ với Thiên Chúa, thì mối quan hệ nam nữ cũng bị tổn thương. Không còn phải là quan hệ yêu thương thực sự, nhưng là quan hệ thống trị và thèm khát (St 3,16). Ơn gọi mở ra với sự sống cũng trở thành nặng nề vì phải đau đớn khi sinh nở và vất vả trong lao công (St 3, 16-19).
Cho dẫu con người xa lìa Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người. Ngài tiếp tục nâng đỡ và giáo dục ý thức luân lý liên quan đến hôn nhân và gia đình. Cho dẫu còn bất toàn và phải nhượng bộ “sự cứng lòng của con người” (Mt 19,8), luật Môsê đã giúp bảo vệ người phụ nữ đối với sự thống trị độc đoán của người chồng, cũng như giúp đỡ vợ chồng thoát khỏi xu hướng ích kỷ, đi tìm khoái lạc riêng mình, đồng thời biết mở ra cho một lối sống tự hiến, cho đi. Khi các ngôn sứ đến, các ngài giúp dân Chúa đào sâu ý nghĩa về tính chất duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân (x.Hs 1-3; Is 54, 62). Các tác phẩm trong Cựu ước như sách Ruth, Tôbia, Diệu ca là những tác phẩm mang tính giáo dục cuộc sống hôn nhân rất cao.
Tuy nhiên chỉ với Đức Giêsu, hôn nhân mới tìm lại được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của mình. Tin Mừng ghi nhận Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên trong khung cảnh một tiệc cưới (x.Ga 2, 1-11). Như thế, Ngài xác quyết tình thiện hảo của hôn nhân, và hôn nhân trở thành dấu chỉ hiệu nghiệm cho sự hiện diện của Chúa Kitô. Đồng thời trong giáo huấn của Ngài, Đức Giêsu xác lập lại tính bất khả phân ly của sự kết hợp vợ chồng, vì “Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân ly” (Mt 19,6). Đòi hỏi này có thể vượt quá sức tự nhiên của con người. Nhưng khi tái lập ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân, Đức Giêsu cùng nâng đỡ đôi vợ chồng bằng ân sủng và sức mạnh của Ngài, ân sủng tuôn chảy từ thập giá cứu độ (x. Mt 19, 11). Chính vì thế, Thánh Phaolô đã trình bày giao ước hôn nhân trong mối liên kết với giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x. Ep 5, 25-26). Hôn nhân trở thành Bí tích của giao ước mới, nghĩa là hôn nhân vừa diễn tả giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, vừa chuyển thông ân sủng để đôi vợ chồng sống ý nghĩa giao ước đó.
II. Cử Hành Hôn Phối Và Sự Ưng Thuận Tự Do
Chính vì hôn nhân là Bí tích của giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, nên hôn lễ của đôi bạn công giáo thường được cử hành trong Thánh lễ, vì Thánh lễ là sự tưởng niệm Giao ước Mới. Nhờ đó, đôi hôn phối kết hiệp sự hiến dâng cho nhau với hiến tế của Chúa Kitô, và vì cùng thông phần với Mình Máu Chúa Kitô, họ trở nên “một thân mình” trong Chúa Kitô (x. 1Cr 1o, 17). Vì bí tích là hành động thánh hóa, nên để cử hành Bí tích Hôn phối cách xứng đáng và có hiệu quả (Tông Huấn GD 67), đôi hôn phối phải chuẩn bị trước bằng cách lãnh nhận Bí tích Hòa giải.
Trong Bí tích Hôn phối, chính đôi bạn làm nên Bí tích khi họ bày tỏ sự ưng thuận này tự do trước Hội Thánh, nghĩa là họ không bị ép buộc bất cứ vì lý do gì, cũng không bị ngăn cản bởi luật tự nhiên hay luật Hội Thánh. Việc trao đổi sự ưng thuận này là yếu tố tối cần thiết và làm nên hôn phối. Sẽ không có hôn phối nếu không có sự ưng thuận này (x. Gl 1057). Hôn phối không thành sự nếu thiếu tự do. Linh mục hay Phó tế chủ sự nghi thức sẽ đón nhận lời trao đổi ưng thuận của đôi hôn phối, và chúc lành cho họ nhân danh Hội Thánh.
Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh nói lên ý nghĩa kết hôn là một hành động mang ý nghĩa Hội Thánh. Đồng thời, vì Bí tích Hôn phối là một hành vi Phụng Vụ, và hôn nhân là một lối sống trong Hội Thánh, nên Hội Thánh yêu cầu đôi bạn cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh. Để cho sự ưng thuận của đôi hôn phối thực sự là hành vi tự do và có trách nhiệm, để cho giao ước hôn nhân có được nền tảng vững chắc và bền vững về mặt nhân bản cũng như tôn giáo, việc chuẩn bị cho các đôi tân hôn là công việc rất quan trọng. Đây là bổn phận không những của các chủ chăn, nhưng còn của các bậc cha mẹ và mọi thành phần dân Chúa.
III. Hiệu Quả Của Bí tích Hôn Phối
Sự ưng thuận mà đôi bạn trao cho nhau được chính Thiên Chúa đóng ấn. Như vậy, giao ước hôn nhân hội nhập giao ước giữa Thiên Chúa với con người, và “tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa” (MV 48). Vì thế, sợi giây hôn phối liên kết hai người mãi mãi không bị cắt đứt, và Hội Thánh không có quyền đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. “Chúa Kitô ban dồi dào ân phúc cho tình yêu vợ chồng… Như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành; ngày nay Đấng Cứu Thế, bạn Trăm Năm của Hội Thánh, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí tích Hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh” (MV 48). Như thế, ân sủng được ban trong Bí tích Hôn phối nhằm kiện toàn tình yêu vợ chồng, và kiên cường sự hiệp nhất bất khả phân ly.
IV. Ích Lợi Và Đòi Hỏi
- 1. Đơn nhất và bất khả phân ly
“Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một thân mình” (Mt 19,6). Tình yêu hôn nhân liên kết hai người nam nữ thành một, không chỉ trong thân xác, nhưng trong con người toàn diện: thân xác, tình cảm, tinh thần và ý chí. vì thế, sự kết hợp giữa hai người phải mang tính đơn nhất và bất khả phân ly, nghĩa là một vợ một chồng và gắn bó với nhau đến trọn đời. Đòi hỏi này phát sinh từ chính bản chất của tình yêu, nhưng được kiên cường, thanh tẩy và kiện toàn nhờ hiệp thông với Đức Giêsu Kitô. Đòi hỏi đó cũng diễn tả sự bình đẳng nhân vị giữa người nam và người nữ. Vì thế, chế độ đa thê đi ngược lại với tình yêu hôn nhân đích thực.
2. Trung tín
Ở tự bản chất, hôn nhân gọi mời trung tín. Hơn thế nữa, ích lợi của con cái cũng đòi hỏi đôi vợ chồng phải trung tín với nhau. Nhưng đối với người tín hữu, lý do sâu xa nhất của đòi hỏi này là sự trung tín của chính Thiên Chúa trong giao ước với con người và của Chúa Kitô với Hội Thánh. Nhờ Bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng khám phá ý nghĩa sâu xa của đòi hỏi trung thành, đồng thời diễn tả ra bên ngoài và làm chứng bằng chính cuộc đời mình. Hội Thánh biết rằng sống được tình yêu trung tín như thế không phải là điều dễ dàng, nhất là trong thời đại hôm nay. Tuy nhiên với ơn Chúa và sự nâng đỡ của cộng đoàn, đôi vợ chồng có thể chia sẻ và làm chứng cho tình yêu trung tín của chính Thiên Chúa và Hội Thánh biết ơn các đôi vợ chồng. Trong một vài trường hợp, khi cuộc sống chung không thể tiếp tục được vì nhiều lý do, Hội Thánh có thể cho phép ly thân. Hai người vẫn là vợ chồng trước mặt Chúa, và hy vọng nhờ tinh thần hòa giải, một ngày nào đó, họ có thể tiếp tục cuộc sống chung như trước. Đối với một số đôi hôn phối đã li dị và kết hôn một lần nữa theo luật dân sự, Hội Thánh không nhìn nhận cuộc hôn nhân mới là thành sự, và vì thế, họ không được Rước Lễ, không được thi hành một vài trách nhiệm trong Hội Thánh, và chỉ được lãnh nhận Bí tích Hòa giải khi ăn năn sám hối và cương quyết sống tiết dục hoàn toàn. Đồng thời Hội Thánh mong ước các Linh mục và cộng đoàn tín hữu quan tâm chăm sóc những anh chị em sống trong hoàn cảnh khó khăn đó, để họ không mang mặc cảm bị tách rời khỏi Hội Thánh, nhưng tiếp tục tham dự Thánh Lễ, lắng nghe Lời Chúa, kiên trì cầu nguyện và thực thi việc bác ái (x. Tông huấn GĐ 84).
3. Trách nhiệm sinh sản
“Tự bản tính, hôn nhân và tình yêu vợ chồng hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Con cái vừa là ân huệ cao quí nhất của hôn nhân, vừa góp phần rất lớn vào hạnh phúc của cha mẹ” (MV 58). Việc sinh sản và giáo dục ở đây không chỉ nhằm đến đời sống thể lý nhưng cả đời sống luân lý, tinh thần và tâm linh của con cái. Vì thế, cha mẹ lãnh nhận trách nhiệm giáo dục rất lớn. Đối với những đôi vợ chồng hiếm muộn, cuộc sống hôn nhân của họ vẫn có thể mang đầy ý nghĩa. Thay cho hoa trái là con cái, hoa trái trong cuộc đời họ là lòng bác ái, sự phục vụ và chính hi sinh của họ.
V. Hội Thánh Tại Gia
Thiên Chúa đã làm người trong khung cảnh một gia đình, và Hội Thánh chẳng là gì khác hơn “gia đình của Chúa”. Trong thời đại hôm nay, gia đình tín hữu chiếm vị trí quan trọng đặc biệt, là trung tâm tỏa sáng đức tin. Vì thế, Hội Thánh gọi gia đình là “Giáo Hội tại gia”. Chính trong khung cảnh gia đình, người tín hữu sống và thể hiện những chức năng chính yếu của Hội Thánh: tư tế, ngôn sứ và vương đế. Gia đình là nơi cha mẹ làm chứng đức tin cho con cái, và giúp con cái khám phá ơn gọi Chúa dành cho nó. Gia đình là nơi các thành viên kết hợp với nhau trong kinh nguyện, trong sự bỏ mình và đời sống thánh thiện. Gia đình cũng là nơi chúng ta học tập những đức tính nhân bản và Kitô giáo, nhất là tinh thần phục vụ, yêu thương, quảng đại và tha thứ. Đối với những anh chị em không kết hôn và phải sống cô độc vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, lời của Đứa Gioan Phaolô II thật đáng ghi nhớ: “Trong thế giới này, không ai là không có gia đình. Hội Thánh là ngôi nhà và gia đình của tất cả mọi người, nhất là những ai phải gồng gánh nặng nề” (Tông huấn CĐ 85). Những anh chị em ấy gần gũi với Trái Tim Chúa cách riêng, và các mục tử cần dành cho họ sự chăm sóc đặc biệt.
VI. Sống Ơn Gọi Hôn Nhân
- Trong truyền thống lâu dài của mình, Hội Thánh Công Giáo luôn chú tâm đến cuộc sống hôn nhân gia đình. Ngày nay, cuộc sống hôn nhân đang bị đe dọa trầm trọng, và nhiều gia đình đã hoặc đang có nguy cơ đổ vỡ. chính vì thế, việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân trở nên cần thiết hơn bao giờ. Ở một số giáo xứ, các Linh mục đã tổ chức những khóa chuẩn bị hôn nhân, giúp các bạn trẻ ý thức về nhiều mặt trong cuộc sống gia đình: tâm lý, thiêng liêng, phái tính, kinh tế… Những công việc đó thật đáng khuyến khích và cần nhân lên nhiều hơn nữa.
- Chúa Kitô ban những ân sủng cần thiết cho đôi vợ chồng trong cuộc sống hôn nhân, nhưng Ngài không cưỡng ép. Chính đôi vợ chồng phải biết đón nhận ân sủng đó, qua tình thương chăm sóc cho nhau, qua kinh nguyện và việc lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Bí tích Hòa giải giúp họ vượt qua những lỗi lầm trong quan hệ vợ chồng và trong trách nhiệm làm cha mẹ. Bí tích Thánh Thể giúp họ đi sâu hơn vào mối hiệp thông với Chúa, nhờ đó sống mối hiệp thông trong gia đình tốt đẹp hơn.
- “Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ ngôn sứ của người giáo dân, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân” (GH 35). Chính trong gia đình, con cái lãnh nhận những bài học đầu tiên về đức tin, qua gương sáng của cha mẹ. Các bậc cha mẹ cần ý thức điều này, và như thế, bằng chính bổn phận gia đình, họ góp phần vào sứ mạng chung của Hội Thánh.