(x. SGLC từ 1749 đến 1775)
“Xét theo phẩm giá, mọi người vì là những nhân vị, nghĩa là người có lý trí và ý chí tự do, nên phải chịu trách nhiệm về cá nhân mình” (Tuyên ngôn về tự do tôn giáo 2)… Vậy trước tòa án Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ đã làm điều thiện hay điều ác” (MV 17).
I. Chủ Thể Luân Lý Và Hành Vi Nhân Linh
Mỗi người là một nhân vị, nghĩa là có những đặc thù là họ khác biệt với các hữu thể khác, và làm nên phẩm giá cũng như quyền hạn của họ. Nhân vị có đặc tính nổi bật nhất là chủ thể tính, nghĩa là làm chủ nhân duy nhất của các hành vi cũng như của việc thực hiện bản thân mình. Mỗi người là một nhân vị, nên là một chủ thể, nhưng họ phải làm chủ mình và các quyền hạn của mình, sao cho nhân vị mình được triển nở phù hợp với phẩm giá; và họ còn nghĩa vụ phải tôn trọng chủ thể và quyền hạn của các nhân vị khác trong xã hội. Làm chủ như thế con người trở thành một chủ thể luân lý. Và khi con người hành xử quyền làm chủ và các nghĩa vụ của mình thì những hành vi nào phát xuất từ ý chí tự do đều được gọi là hành vi nhân linh. Như vậy khi hành xử tự do theo lý trí thì con người trở thành một chủ thể luân lý. Và hành vi phát xuất từ phán đoán và tự do chọn lựa ấy, xét về mặt luân lý, là hành vi nhân linh, hành vi có thể tốt hay xấu, có tính luân lý.
II. Tính Luân Lý (Tốt Xấu) Của Hành Vi Nhân Linh
Tính luân lý của hành vi nhân linh tùy thuộc vào ba nguồn là: đối tượng được chọn, mục đích nhắm tới hay ý tưởng, và hoàn cảnh của hành vi. Ba nguồn nầy là những yếu tố làm cho hành vi nhân linh có tính luân lý.
Đối tượng được chọn là: Tiêu chuẩn đầu tiên để xét xem một hành vi tốt hay xấu. Đối tượng được chọn sẽ định loại hành vi là tốt xấu, tùy theo lý trí nhận xét và phán đoán nó có phù hợp hay không với sự thiện đích thực. Chọn một đối tượng tự bản tính là xấu thì toàn bộ hành vi là xấu, dầu ta có nhắm tới mục đích nào hoặc làm trong hoàn cảnh nào. Chẳng hạn chọn đối tượng là tà dâm, một điều tự bản chất là xấu thì dầu có nhắm tới mục đích hay ở trong hoàn cảnh nào cũng vẫn là hành vi xấu.
Mục đích nhắm tới hay ý hướng đây là yếu tố chủ chốt để đánh giá tính luân lý của hành vi, chúng có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất luân lý của đối tượng và khiến đối tượng tốt có thể thành xấu. Bởi vì cũng một đối tượng nhưng mục đích nhắm tới và ý hướng thúc đẩy lại khác nhau. Chẳng hạn phục vụ hay bố thí có thể vì yêu mến Chúa, vì muốn giúp đỡ tha nhân, cũng có thể để mong nhận lại một ân huệ, hoặc để khoe mình lấy tiếng… Nhưng mục đích không thể biện minh cho phương tiện.
Hoàn cảnh của hành vi, bao gồm cả các hậu quả của nó, là những yếu tố phụ thuộc vào hành vi luân lý, chúng có thể làm hành vi tốt hơn hay xấu hơn, hoặc làm cho chủ thể hành vi thêm hoặc bớt trách nhiệm. Các hoàn cảnh tự chúng không thể biến đổi tính luân lý của hành vi.
III. Đam Mê Và Đời Sống Luân Lý
Con người tự điều hành mình tới hạnh phúc nhờ các hành vi nhân linh, trong đó các đam mê có phần đóng góp quan trọng. Theo truyền thống Kitô giáo, đam mê là những cảm xúc hoặc những chuyển động mạnh mẽ của tình cảm, hướng con người đến hành động hoặc không hành động, tùy theo họ cảm thấy hoặc tưởng là tốt hay xấu. Đam mê là chỗ giao lưu giữa sinh hoạt cảm giác và sinh hoạt của tinh thần. Nó gồm nhiều thứ, nhưng căn bản nhất là yêu thương. Từ đam mê căn bản nầy phát xuất ra các đam mê khác: yêu thương được thỏa mãn thì vui mừng, chưa được thì ham muốn, được nhưng chưa chắc thì sợ mất, muốn mà không được thì buồn, bị phản bội thì giận ghét… Xét về mặt luân lý, đam mê tự bản chất thì không xấu cũng không tốt. Đam mê là những cảm xúc sôi nổi làm chuyển biến cơ thể con người (khóc, cười, đỏ mặt, tái xanh, run… ) và có vai trò quan trọng trong đời sống luân lý. Đam mê được đánh giá tốt hay xấu tùy theo chúng thực sự bị chi phối bởi lý trí và ý chí, và khi chúng góp phần vào một hành vi tốt hay xấu. Vì thế con người phải làm chủ để sử dụng các đam mê, không tiêu diệt chúng cũng không để chúng tung hoành phóng túng. Những đam mê được sử dụng tốt có thể trở thành nhân đức (yêu thương biến thành bác ái…) trái lại, nếu để chúng phóng túng có thể biến thành tính xấu (buồn biến thành thất vọng…). Kitô hữu còn được Chúa Thánh Thần trợ giúp để sử dụng và quy hướng đam mê tới các nhân đức Tin, Cậy, Mến để có thể hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật, đảm bảo cho hạnh phúc cả đời nầy lẫn đời sau.
IV. Lý Trí Và Con Tim
“Muốn đạt được sự thiện luân lý tới mức toàn hảo, con người cần được động viên không những chỉ bởi ý chí mà còn bởi cả con tim nữa” (Sách Giáo lý 1775) Thiên Chúa đã ban cho con người phẩm giá cao cả là vừa có lý trí vừa có con tim, con người phải sử dụng mọi năng lực của mình trong việc theo đuổi ơn gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người đã bị thương tổn vì nguyên tội, nên càng phải tự mình cố gắng và cậy nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp mới làm chủ các năng lực đó cách hài hòa và kiên trì được. Đó chính là trách nhiệm của Kitô hữu đối với ơn gọi của mình. Kitô giáo nói đến đam mê, còn người Á Đông chúng ta gọi là “thất tình” (bảy tình) đó là: vui (hỉ), giận (nộ), buồn (ai), sợ (cụ), yêu (ái), ghét (ố), ham muốn (dục). Kitô giáo cũng như các nhà hiền triết Á Đông chúng ta không chủ trương diệt các đam mê, nhưng mời gọi ta làm chủ và quy hướng chúng về mục đích tốt, về “chí thiện” (Sự thiện toàn hảo), chẳng hạn không ham muốn giàu sang nhưng ham muốn làm vinh danh Thiên Chúa; hoặc mời gọi ta giữ cho chúng không thái quá, không bất cập, giữ sự “trung dung” đúng nghĩa, chẳng hạn buồn mà không thất vọng, giận mà không phạm tội… Dùng lý trí để làm chủ đam mê và hướng chúng tới “chí thiện” thì trí năng được khích thích và dễ thăng tiến, ý chí được tăng cường và dễ kiên quyết. Khi lý trí và con tim cùng chung sức và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp, con người chắc chắn đạt tới chí thiện.