(x. SGLC từ 2331 đến 2400)
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28).
I. Giá Trị Của Giới Tính
“Thiên Chúa là tình yêu. Người sống nơi chính bản thân mình mầu nhiệm hiệp thông và yêu thương. Khi tạo dựng con người có nam có nữ giống hình ảnh Người (…) Người khắc ghi trong họ ơn gọi, nghĩa là khả năng và trách nhiệm tương ứng, để sống yêu thương và hiệp thông” (PC 11). Như thế loài người có hai giới nam và nữ. Mỗi giới có những đặc tính riêng gọi là giới tính. Giới tính chi phối mọi khía cạnh của con người cả hồn lẫn xác, đặc biệt là khía cạnh cảm xúc, khả năng yêu thương và sinh sản, nói tổng quát hơn là khả năng nối kết những quan hệ để hiệp thông với người khác. Mỗi người nam và nữ phải hiểu biết và chấp thuận giới tính của mình đó là những đặc tính vừa khác biệt vừa bổ túc cho nhau về thể xác, luân lý và tinh thần, cốt để mưu ích cho hôn nhân và phát huy đời sống gia đình. Sự hòa hợp trong đời sống lứa đôi và đời sống xã hội, tùy thuộc một phần vào cách sống của hai người nam nữ biết bổ túc cho nhau, biết nâng đỡ nhau và nương tựa lẫn nhau. Nam hay nữ đều có phẩm giá bình đẳng như nhau, nhưng mỗi giới phản ánh quyền năng và tình âu yếm của Thiên Chúa cách khác nhau. Đức Giêsu đã đến khôi phục mọi tạo vật trong sự tinh tuyền nguyên thủy của chúng. Người đã dạy: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28). “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, con người không được phân ly” (Mt 19,6). Và truyền thống Hội Thánh hiểu rằng, điều răn VI bao gồm toàn bộ những gì thuộc giới tính con người.
II. Ơn Gọi Khiết Tịnh
Khiết tịnh có nghĩa là con người hòa nhập giới tính cách tốt đẹp nơi bản thân mình, nhờ có cả xác hồn được thống nhất từ bên trong. Giới tính cho thấy con người phải lệ thuộc vào thể xác và sinh lý; nhưng khi giới tính được hòa nhập trong tương quan giữa người với người, trong việc người nam người nữ hiến dâng trọn vẹn và mãi mãi cho nhau, thì giới tính lại mang giá trị cao quý. Như thế đức khiết tịnh bao gồm việc con người sống thanh khiết toàn vẹn và hiến dâng trọn vẹn.
1. Sống thanh khiết toàn vẹn
Người khiết tịnh là người duy trì được sự sống và tình yêu của mình toàn vẹn liêm khiết, làm cho bản thân được thống nhất, chống lại những gì là giả hình gian dối. Muốn thế, phải tập tự chủ, tập hướng dẫn tự do của mình, không để mình nô lệ các đam mê, các bản năng hoặc áp lực bên ngoài (x.MV 17). Muốn tập phải dùng các phương tiện như: biết mình tự kiềm chế cho phù hợp hoàn cảnh sống, vâng theo luật Chúa, siêng năng cầu nguyện, tập các nhân đức, đặc biệt là nhân đức tiết độ, giúp ta dùng lý trí chi phối các đam mê và thèm muốn tình cảm. Việc tập tự chủ phải là công trình dài hạn không chỉ một lần là đủ, mà ở tuổi đời nào cũng phải tập đi tập lại (x.Tt 2,1-6), và phải tập khẩn trương hơn trong tuổi nhân cách đang thành hình, như tuổi trẻ và tuổi thiếu niên. Đức khiết tịnh cũng theo những định luật tăng trưởng, nghĩa là phải trải qua lúc bất toàn và nhiều khi còn tội lỗi nữa. Đức khiết tịnh được coi là chuyện riêng tư của bản thân, nhưng nó cũng đòi hỏi một số gắng phát triển văn hóa, vì “sự thăng tiến của nhân vị tùy thuộc ở sự phát triển của xã hội” (MV 25,1). Xã hội có giúp con người được biết và được giáo dục, thì họ mới dễ dàng tôn trọng các giá trị luân lý. Sau hết, đức khiết tịnh là một ơn của Chúa, là hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5,23).
2. Hiến dâng trọn vẹn
Việc tự chủ bản thân để duy trì đức khiết tịnh dẫn đến việc hiến dâng, làm cho ta trở thành nhân chứng cho người khác về lòng trung tín và tình âu yếm của Thiên Chúa. Nhờ ảnh hưởng của đức ái, đức khiết tịnh được coi là trường dạy hiến dâng. Đức khiết tịnh nảy nở trong tình bạn hữu, nó giúp ta biết noi theo bắt chước Chúa Kitô. Đấng đã chọn ta làm bạn hữu Người (x.Ga 15,15) và tận hiến cho ta để ta được làm con cái Thiên Chúa. Đức khiết tịnh được bày tỏ nhất là trong tình bạn hữu với người thân cận, dù là nam hay nữ, tình bạn ấy được coi là một ích lợi lớn lao cho mọi người, nó dẫn đến sự hiệp thông trong tâm hồn. “Đức khiết tịnh làm cho ta tổ chức lại bản thân, đem đến chỗ hiệp nhất mà ta đã đánh mất vì chính ta đã phân tán” (Âu-tinh, tự thuật 10,29). Mỗi Kitô hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh trong bậc sống của mình. “Người thì khiết tịnh trong bậc đồng trinh hay bậc độc thân được thánh hiến, là phương thế trổi vượt để dễ dàng hiến dâng cho Thiên Chúa một con tim không chia sẻ: người khác thì khiết tịnh theo luật luân lý ấn định chung cho mọi người trong bậc sống vợ chồng hoặc ở vậy (độc thân) “. (CDF 11). Những người đã đính hôn cũng được mời gọi sống khiết tịnh bằng việc tiết dục. Việc tiết dục giúp họ tôn trọng nhau, tập giữ lòng chung thủy, và hy vọng được Chúa giúp chấp nhận nhau. Họ giúp nhau lớn lên trong khiết tịnh.
III. Những Tội Nghịch Đức Khiết Tịnh
Tội dâm ô là một ước muốn hỗn loạn chỉ tìm hướng khoái lạc nhục dục mà không nhằm mục đích sinh sản và hiệp nhất với nhau. Ước muốn như vậy trái luân lý.
Tội thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục để tìm khoái lạc nhục dục, ngoài mục đích yêu thương và hiến dâng trọn vẹn cho nhau, để sinh sản con cái (x.CDF Persona Humana 9). Trong mục vụ, để xét đoán cho đúng tội nầy, cần lưu ý đến tình trạng chưa trưởng thành về tình cảm, đến sức mạnh của thói quen đã mắc phải, đến tình trạng xao xuyến và các nhân tố tâm lý hay xã hội làm giảm tội, và thậm chí còn xóa bỏ tội về mặt luân lý.
Tội tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và người nữ. Tội nầy nghịch nặng với nhân phẩm và tính dục của con người, vì tính dục hướng tới lợi ích của vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Tội nầy gây gương xấu nặng khi phạm với thanh thiếu niên.
Tội khiêu dâm là trình bầy cho người khác những hành vi tính dục đã làm thật hoặc chỉ giả vờ. Nó làm biến chất hành vi vợ chồng hiến dâng thân mật cho nhau. Nó xúc phạm phẩm giá của những người lao mình vào nó: diễn viên, con buôn, dân chúng, vì người nầy trở thành một trò chơi thô lỗ và một mối lợi bất chính cho người kia. Nó dìm cả đôi bên trong ảo tưởng về một thế giới giả tạo. Đó là một lỗi nặng. Chánh quyền cần nghiêm cấm sản xuất và phổ biến các sản phẩm khiêu dâm.
Tội mãi dâm là xúc phạm đến phẩm giá của người hành nghề mãi dâm, vì họ chỉ là trò vui nhục dục cho người khác. Người mua dâm phạm tội nặng đến chính mình vì lỗi đức khiết tịnh đã cam kết khi được Rửa tội, và làm ô uế thân thể mình là đền thờ Chúa Thánh Thần. Đây là một tai họa trong xã hội, thường liên hệ đến phụ nữ, nhưng cũng liên hệ đến cả đàn ông, trẻ em hoặc thiếu niên. Với giới trẻ này, người ta còn phạm tội làm gương xấu nữa. Tuy nhiên sự nghèo khổ và áp lực xã hội có thể giảm đi trách nhiệm.
Tội hiếp dâm là dùng bạo lực cưỡng bức người khác phải quan hệ tình dục. Tội nầy phạm đến đức công bằng và đức ái, nghĩa là đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và sự toàn vẹn thanh khiết cả thân xác lẫn tinh thần của con người. Nó có thể gây thương tổn nặng cho nạn nhân phải chịu ảnh hưởng suốt đời. Tội nầy đặc biệt nặng nề khi do cha mẹ hay các người giáo dục phạm đến những trẻ được trao phó cho mình.
Tội đồng tính luyến ái là tội của những nam hay nữ bị cám dỗ về tình dục, nhưng chỉ với người cùng giới với mình thôi. Kinh Thánh vẫn lên án việc nầy là “việc suy đồi trầm trọng” (x.St 19,1-29; Rm 1,24-27) và truyền thống luôn coi đó là hành vi thác loạn, trái với luật tự nhiên, nghịch với việc trao ban sự sống, không phải là để bổ khuyết tình cảm và tính dục thực sự. Tuy nhiên đa số những người phạm tội nầy không tự chọn tình trạng đồng tính luyến ái, họ cần được đối xử kính trọng, thông cảm và tế nhị, tránh kÿ thị họ cách bất công. Họ có thể nhờ sự tự chủ để tập luyện cho mình được tự do nội tâm, nhờ bạn hữu nâng đỡ, nhờ cầu nguyện và lãnh các bí tích để trở về với đời sống Kitô hữu trọn hảo.
IV. Giá Trị Hôn Nhân
Trong hôn nhân sự kết hợp thể xác của vợ chồng là dấu chỉ và đảm bảo cho sự hiệp thông tinh thần. “Những hành vi thể hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của vợ chồng là những hành vi đức hạnh và xứng đáng, chúng bày tỏ và giúp vợ chồng hiến thân để làm cho nhau thêm phong phú trong niềm vui và biết ơn”. (MV 49,2). Nhờ sự phối hợp mà vợ chồng thể hiện được mục đích kép của hôn nhân, đó là lợi ích của chính vợ chồng và việc sinh sản. Đây là hai ý nghĩa và hai giá trị của hôn nhân mà ta không thể tách rời. Tách rời là gây thiệt hại cho đời sống thiêng liêng của vợ chồng, và đe dọa lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình.
Hôn nhân đòi vợ chồng phải chung thủy và sinh sản con cái.
1. Chung thủy giữa vợ chồng
Vợ chồng làm thành “một cộng đồng thân mật để sống và yêu, theo những lề luật do Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và trao ban. Cộng đồng nầy được thiết lập trên giao ước giữa hai vợ chồng, nghĩa là trên sự ưng thuận của mỗi người và không thể rút lại được” (MV 48,1). Giao ước nầy đòi họ phải duy trì một vợ một chồng và không được tháo gỡ (Giáo luật 1056). “Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân ly” (Mc 10,9). Sự chung thủy giữa vợ chồng chứng tỏ lời họ hứa đã được duy trì bền vững.
2. Sinh sản con cái
Sinh con là một ân huệ và là mục đích của hôn nhân. Đứa con là hoa trái và là thành tựu do tình yêu hiến dâng của vợ chồng, và vợ chồng được dự phần vào quyền sáng tạo và tình yêu phụ tử của Thiên Chúa (x.MV 50,2). Vợ chồng vừa truyền thông sự sống, vừa là người giáo dục, đó là sứ mệnh riêng của họ. Họ biết rằng chính mình cộng tác viên của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa và là thông ngôn của Người (MV 50,2). Nhưng trách nhiệm sinh sản con cái đòi hỏi vợ chồng phải điều hòa việc sinh sản, nghĩa là nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể cách quãng việc sinh con, nhưng không được chiều theo lòng ích kỷ, mà phải theo lòng quảng đại của bậc cha mẹ có trách nhiệm. Muốn điều hòa việc sinh sản, họ phải theo những phương pháp phù hợp với luân lý như: chế dục định kÿ, phương pháp điều hòa dựa trên việc tự quan sát bản thân, và phương pháp dựa vào thời kÿ không thụ thai. Các phương pháp nầy tôn trọng thân xác vợ chồng, khích lệ tình âu yếm nhau và giúp họ tập luyện tự do đích thực. Do đó, “mọi hoạt động nào diễn ra trước hoặc đang khi vợ chồng ăn ở với nhau, hoặc là sau đó trong diễn tiến và phát triển các hiệu quả tự nhiên của nó, nếu được dùng như mục đích hay phương tiện để làm cho không thể sinh sản được, đều là xấu tự bản chất” (HV 14).
Đứa con không phải là “cục nợ”, nhưng là “hồng ân tuyệt nhất của hôn nhân”. Đứa con có những quyền thực sự của nó, đó là “quyền được là hoa trái cả hành vi do tình yêu hôn nhân của cha mẹ, và quyền được tôn trọng như một nhân vị ngay từ lúc mới thụ thai” (CDF Donum Vitae 2,8). Kinh Thánh và truyền thống coi những gia đình đông con là dấu hiệu Thiên Chúa chúc phúc và cha mẹ có lòng quảng đại (x.MV 50,2). Phúc Âm cho thấy việc son sẻ không con cái không phải là bất hạnh tuyệt đối (SGLC 2379). Những kỷ thuật tân tiến ngày nay như thụ tinh nhân tạo do tinh và noãn không phải của chồng hay vợ, đều là việc bất chính nghiêm trọng (CDF Don vit 2,1) Cả khi thụ tinh nhân tạo do tinh của chồng cũng không thể chấp nhận về mặt luân lý, vì nó tách biệt hành vi tính dục với hành vi sinh sản. “Kitô hữu phải ý thức rằng sự sống con người và trách nhiệm truyền sinh không bị giới hạn ở phạm vi đời nầy, và không thể đạt được đầy đủ mọi chiều kích cũng như đầy đủ ý nghĩa ở đời nầy, nhưng chúng luôn luôn phải được qui chiếu về mệnh vĩnh cửu của mọi người” (MV 51,4).
V. Những Vi Phạm Phẩm Giá Hôn Nhân
Ngoại tình có ý chỉ sự bất trung giữa vợ chồng. Khi ít là một trong hai người nam nữ đã có vợ chồng, mà lại quan hệ tình dục với nhau, dù chỉ chóng qua thôi, họ đã phạm tội ngoại tình. Chúa Kitô đã lên án tội ngoại tình dù chỉ là trong ước muốn (x.Mt 27-28). Điều răn thứ VI và Tân Ước tuyệt đối cấm ngoại tình (x.Mt 5,32; 19,6) là bất công, là lỗi lời cam kết và giao ước trong hôn nhân, xúc phạm đến quyền lợi của người bạn đời, và của cơ chế hôn nhân, gây nguy hại cho nhân loại và cho các trẻ em đang cần sự hiệp nhất bền vững của cha mẹ.
Ly dị. Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến ý định của Đấng Tạo Hóa muốn hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 5, 31-32). Người hủy bỏ những dung thứ đã lọt vào trong luật cũ (x.Mt 19,7-9). Giữa hai người công giáo, khi đã kết hôn và ăn ở với nhau (hòa hợp) rồi thì không quyền năng nào của loài người, và không lý do nào có thể tháo gỡ, trừ sự chết (CIC luật 1141). Ly dị vi phạm nặng luật tự nhiên, và còn xúc phạm đến giao ước mà Bí tích Hôn phối là dấu hiệu. Nếu người đã ly dị còn kết hôn nữa, thì họ ở trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên. Ly dị còn vô luân nữa, vì nó gây xáo trộn trong gia đình: người bạn đời bị bỏ rơi, con cái bị tổn thương vì cha mẹ chia ly, còn trong xã hội, nó như một vết thương dễ lây nhiễm.
Ly thân giữa vợ chồng, nhưng vẫn giữ dây hôn phối, đó là điều hợp pháp trong một số trường hợp giáo luật đã dự trù, chẳng hạn một trong hai vợ chồng: 1. Gây nguy hiểm nặng nề hoặc về hồn hay xác cho người kia và cho con cái. 2. Làm cho đời sống chúng trở nên cơ cực, (CIC luật 1153).
Đa thê là tình trạng không hợp luân lý. Thật là một thảm kịch khi người đa thê muốn trở thành Kitô hữu, họ buộc lòng bỏ một hay nhiều vợ đã cùng nhau chia sẻ đời sống vợ chồng lâu năm. Dù trở thành Kitô hữu, họ bị buộc nặng phải giữ nghĩa vụ đã giao kết với các người vợ khác, và các con cái của mình.
Loạn luân có ý chỉ những quan hệ xác thịt giữa những người có máu hoặc là sui gia ở cấp bậc mà luật không cho phép kết hôn với nhau. Tội nầy phá hủy quan hệ gia đình và biểu lộ một sự thoái hóa hướng về thú tính. Người lớn phạm tội loạn luân với thiếu niên hay trẻ con được gởi gấm cho mình thì còn tội gấp đôi, vì gây gương xấu và làm cho người trẻ mang dấu vết suốt đời, và còn vi phạm trách nhiệm giáo dục nữa.
Tự do kết hôn là hai người nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không tuân theo một hình thức pháp lý và công cộng nào. Nó gồm nhiều tình trạng như: có vợ bé, không muốn có hôn nhân, không có khả năng cam kết sống chung lâu dài (x.FC 81). Các tình trạng nầy đều xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, trái luật luân lý, và là một tội nặng không được rước lễ.
Hôn nhân thử nghiệm là hai bên đã có ý kết hôn nên có những quan hệ tình dục để thử, trước khi dứt khoát kết hôn với nhau. Việc thử như vậy “không bảo vệ cho họ chống lại những ngông cuồng và thói thất thường” (CDF Per Hum 7). Tình yêu con người không cho phép “thử”, nó đòi hiến thân trọn vẹn và dứt khoát. (x.FC 80).